HOME :: FACEBOOK SHARE :: EMAIL

Trong Danh Chúa Giê-xu Christ, tôi xin được chia sẻ bài giảng của mục sư Simon Chin với chủ đề là

Biết Chúa và có Sự bình an

Tất cả mọi người đều cần có sự bình an, nhưng không phải ai cũng có được sự bình an, và không phải ở tất cả mọi nơi đều có sự bình an. Thực tế thì con người không thể tìm thấy sự bình an trên thế giới này. Cách đây không lâu, có một người đàn ông đi tìm kiếm một nơi bình an, rồi ông ấy nhìn trên bản đồ thế giới. Ở mỗi đất nước mà ông ấy biết thì đều có sự hỗn loạn và rắc rối. Nên ông ấy đã quyết định là chọn một hòn đảo xa để sống ở đó, và ông đã chuyển đến hòn đảo "Forkland" là hòn đảo cách xa nhiều nước, là một nơi yên tĩnh để ông có thể sống cuộc sống bình an. Sau một thời gian ngắn sau khi ông ấy chuyển đến đó thì có chiến tranh giữa nước Anh và Argentina tranh chấp hòn đảo đó. Và bởi vì chiến tranh mà nơi đó hoàn toàn không có hòa bình. Và quả thật thì không có sự bình an. Chỉ ở trong Chúa thì mới có sự bình an.

Gióp 22:21 - "Ấy vậy, ông hãy hòa thuận với Ngài. Hãy ở bình an: nhờ đó phước hạnh sẽ giáng cho ông."

Đây là lời hứa được viết trong Kinh Thánh, rằng nếu một người hòa thuận với Chúa, Chúa là Đấng sáng tạo, Ngài là cha của toàn nhân loại. Ngài là Chúa của sự sống và cũng là Chúa của Thiên đàng. Ngài được biết đến là Chúa Toàn năng, và cũng là Chúa biết mọi sự, Ngài là bất diệt. Nếu chúng ta biết Đức Chúa Trời và đến đặt niềm tin nơi Ngài, đến và tin tưởng nơi Ngài, thì chúng ta sẽ có sự bình an. Và ân phước của Ngài sẽ đổ đầy trên chúng ta và gia đình chúng ta. Đây là trải nghiệm của nhiều người biết được Chúa Thật này.

Từ lúc một thành viên trong gia đình tôi tin vào Chúa, sự bình an của Chúa đã đến nhà chúng tôi. Đây là ân điển tuyệt vời mà Chúa muốn ban cho toàn thể nhân loại. Nhưng nếu chúng ta nhìn vào con người thời nay. Mặc dù là có rất nhiều người có tôn giáo, họ thờ phượng những vị thần thánh khác nhau, nhưng họ không có sự bình an. Một trong những lý do chính ở đây đó là vị thần mà họ thờ phượng không phải là Chúa thật - Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo, là Đấng có thể ban sự bình an. Một tác giả trẻ tuổi tên là Eliphaz nói rằng nếu chúng ta hòa thuận với Chúa Thật, chúng ta sẽ có sự bình an.

Kinh Thánh so sánh Chúa này như là Người chăn chiên. Chúng ta là những người tin Ngài là những con chiên, và Đức Chúa Trời đã tạo ra chúng ta là Người chăn chiên. Khi bạn nhìn vào đàn chiên đang gặm cỏ ngoài đồng, bạn sẽ thấy rằng đó là những con chiên không có sự lo lắng về bất cứ điều gì cả. Lý do là vì những con chiên đó biết rằng Người chăn chiên đang bảo vệ chúng. Kinh Thánh cũng nói rằng Đức Chúa Trời là Cha trên trời. Ngài là Cha của tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta được tạo dựng bởi Ngài chính là con cái của Ngài. Nếu chúng ta muốn biết về Cha chúng ta thì chúng ta nên quay về nhà của Cha mình và ắt hẳn là chúng ta sẽ có được sự bình an. Tôi nghĩ rằng nơi bình an nhất mà một người có thể tìm thấy được trong những ngày sống trên đất này đó chính là nhà của mình có sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Và đó cũng chính là nhà của Ngài bời vì đó là nơi mà bình an của Chúa tràn ngập trong tất cả mọi người.

Đức Chúa Trời là Cha chúng ta

Ê-xê-chi-ên 34:11-16: "Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, chính ta, tức là ta, sẽ kiếm chiên ta, ta sẽ tìm nó ra. Ví như kẻ chăn tìm bầy mình ra, trong ngày mà nó ở giữa những chiên mình bị tan lạc, thì ta cũng sẽ tìm chiên ta ra như vậy: ta sẽ cứu chúng nó ra khỏi mọi nơi mà chúng nó đã bị tan lạc trong ngày mây mù tăm tối. Ta sẽ đem chúng nó ra khỏi giữa các dân; ta sẽ nhóm chúng nó lại từ các nước, và đem chúng nó về trong đất riêng chúng nó. Ta sẽ chăn chúng nó trên các núi của Y-sơ-ra-ên, kề khe nước, và trong mọi nơi có dân cư trong nước. Ta sẽ chăn chúng nó trong những đồng cỏ tốt, và chuồng chúng nó sẽ ở trên các núi nơi đất cao của Y-sơ-ra-ên; ở đó chúng nó sẽ nghỉ trong chuồng tử tế, và ăn cỏ trong đồng cỏ màu mỡ, tức là trên các núi của Y-sơ-ra-ên. Ấy chính ta sẽ chăn chiên ta và cho chúng nó nằm nghỉ, Chúa Giê-hô-va phán vậy. Ta sẽ tìm con nào đã mất, dắt về con nào đã bị đuổi, rịt thuốc cho con nào bị gãy, và làm cho con nào đau được mạnh. Nhưng ta sẽ hủy diệt những con mập và mạnh. Ta sẽ dùng sự công bình mà chăn chúng nó."

Câu 25 - 31 - "Bấy giờ ta sẽ kết với chiên ta một giao ước hòa bình. Ta sẽ làm cho những thú dữ trong đất dứt đi, đặng dân ta có thể ở yên ổn trong đồng vắng và ngủ trong rừng. Ta sẽ làm cho chúng nó với các miền chung quanh đồi ta nên nguồn phước. Ta sẽ khiến mưa sa nơi mùa thuận tiện, ấy sẽ là cơn mưa của phước lành. Cây ngoài đồng sẽ ra trái, và đất sẽ sanh hoa lợi. Chúng nó sẽ ở yên trong đất mình, và sẽ biết ta là Đức Giê-hô-va, khi ta đã bẻ gãy những đòn của ách chúng nó, và đã giải cứu chúng nó ra khỏi tay những kẻ bắt chúng nó phục dịch. Chúng nó sẽ chẳng làm mồi của các dân ngoại nữa; những loài thú của đất sẽ chẳng nuốt chúng nó nữa; chúng nó sẽ ở yên ổn, chẳng ai làm cho sợ hãi. Ta sẽ sắm vườn có danh tiếng cho chúng nó, chúng nó sẽ không chết đói trong đất mình nữa, và cũng không còn chịu sự hổ nhuốc của các nước nữa. Chúng nó sẽ biết ta, Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng nó, ở cùng chúng nó, và biết nhà Y-sơ-ra-ên chúng nó là dân ta, Chúa Giê-hô-va phán vậy. Bay là chiên của ta, là chiên của đồng cỏ ta; bay là loài người, và ta là Đức Chúa Trời bay, Chúa Giê-hô-va phán vậy."

Những câu này nói cho chúng ta biết về Đức Chúa Trời và mối quan hệ giữa Ngài với những người thuộc về Ngài. Vương quốc Y-sơ-ra-ên đã phục vụ Chúa, Đấng sáng tạo, nhưng có thời gian dân Y-sơ-ra-ên đã phạm tội nghịch cùng Chúa. Họ đã lầm đường và thờ phượng những thần khác. Chính vì vậy mà Đức Chúa Trời đã bỏ mặc họ và đặt họ trong tay của người Ba-by-lôn trong vòng 70 năm. Nhưng Chúa luôn luôn tha thứ cho họ. Trong những câu chúng ta vừa đọc ở trên, Chúa đã hứa sẽ một lần nữa là Đấng cứu thế của họ, là Người chăn chiên cho họ. Ngài sẽ mang họ trở lại để họ ở trong đàn của Ngài và Ngài sẽ là Người chăn chiên. Những ai bị lạc đường, Ngài sẽ đi tìm, những ai bị thương, Ngài sẽ hàn gắn vết thương. Ngài sẽ mang nước và cỏ xanh cho chúng.

Từ câu 25, Ngài đã nói rằng Ngài sẽ lập một giao ước hòa bình với người của Ngài, và khiến những thú dữ phải rời khỏi đất đó; và những chiên con sẽ an toàn ngoài đồng và ngủ trong vườn. Những thú dữ ở đây có nghĩa là kẻ thù, những kẻ thù của dân Y-sơ-ra-ên lúc đó, là những người áp bức dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời nói Ngài sẽ lập giao ước hòa bình với người của Ngài, khiến những thú dữ phải rời khỏi vùng đất đó. Nói cách khác, Chúa sẽ giúp họ thoát khỏi những nguy hiểm. Và thật tế trong lịch sử của dân Y-sơ-ra-ên, khi họ nhận biết được Chúa - Đấng sáng tạo là Chúa của họ, Chúa đã công nhận họ là những chiên con của Ngài. Và thật tế là những thú dữ đã ra khỏi vùng đất đó, và người dân Y-sơ-ra-ên được sống trong hòa bình.

Ngày nay cũng giống như vậy nếu chúng ta muốn có sự bình an, chúng ta phải biết Chúa thật này, Chúa này là Đấng sáng tạo.

Trong sách I Các Vua 18, nói về một sự kiện xảy ra khi con người phạm tội nghịch cùng Chúa, đó là vào lúc người dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng thần Ba-anh và A-sê-ra. Mặc dù thần Ba-anh và A-sê-ra không phải là Chúa đã tạo ra họ, nhưng những người này vẫn thờ phượng thần Ba-anh và A-sê-ra bởi vì vua A-háp đã kết hôn với công chúa Si-dôn, là người thờ thần tượng, đã mang theo thần Ba-anh và A-sê-ra vào vùng đất của dân Y-sơ-ra-ên để thờ. Hơn thế nữa, họ đã giết tiên tri của Đức Chúa Trời. Vị hoàng hậu này đã giữ bên mình 450 tiên tri của thần Ba-anh và 400 tiên tri của thần A-sê-ra. Bởi tội lỗi của những người này, họ đã không nhìn nhận Chúa, nên Chúa đã cho xảy ra cơn hạn hán, một khoảng thời gian không mưa trong suốt 3 năm rưỡi. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn tỏ lòng thương xót.

Trong câu 1, Đức Chúa Trời đã sai tiên tri Ê-li đến gặp vua A-háp, vì Chúa muốn đổ mưa xuống cho họ nhưng họ phải không được thờ thần tượng nữa, họ phải quay trở lại với Chúa Thật thì Chúa sẽ tiếp tục ban phước lành, tiếp tục đổ mưa xuống vùng đất. Vậy khi Ê-li đến trước Vua, ông phải chứng minh cho vị Vua này thấy rằng theo những tiên tri của Ba-anh và A-sê-ra là sai. Nên ông đã thử thách họ bằng một cuộc thi, bằng cách kêu gọi thần của họ, đặt vật sinh tế trên bàn thờ và cầu khẩn thần của họ để cho lửa đốt trên bàn sinh tế. Ê-li cũng kêu gọi Chúa, Đấng sáng tạo trời đất. Ông sẽ cầu khẩn Đức Chúa Trời đổ lửa từ Trời xuống để đốt cháy bàn sinh tế. Và Chúa nào đổ lửa xuống bàn sinh tế chính là Chúa thật.

450 tiên tri đã chấp nhận thử thách này, họ đã cầu khẩn thần của họ. Cho dù họ đã cầu khẩn rất lâu, nhưng vẫn không có câu trả lời nào cả. Câu 24 nói rằng "Đoạn, hãy kêu cầu danh của thần các ngươi, còn ta, ta sẽ kêu cầu danh của Đức Giê-hô-va. Thần đáp lời bằng lửa, ấy quả là Đức Chúa Trời. Cả dân sự đều đáp rằng: Lời nói rất phải"

Bất kể những tiên tri này kêu gọi thần của họ như thế nào, trong câu 28 nói rằng, và theo thói quen tục lệ, họ thậm chí còn dùng gươm giáo gạch vào mình cho đến chừng chảy máu ra. Và khi đã quá trưa rồi, họ vẫn tiếp tục nói tiên tri cho đến giờ dâng tế lễ chay ban chiều, nhưng vẫn chẳng có tiếng gì, chẳng ai đáp lời, cũng không cố ý đến. Mặc dù cả vương quốc Y-sơ-ra-ên lúc đó đang thờ thần Ba-anh và A-sê-ra, nhưng thực tế ở đó hoàn toàn không có hòa bình. Vì họ phải chịu hạn hán trong suốt 3 năm rưỡi và người dân chịu rất nhiều thiệt hại lớn. Nhiều trẻ nhỏ bị chết, và thậm chí là người già cũng không có thức ăn để ăn và nước để uống. Bởi những tiên tri giả này mà hoàng hậu vẫn tiếp tục thờ phượng thần giả đó.

Vậy nên Ê-li đã đến gặp Vua vì người dân Y-sơ-ra-ên vẫn là người của Chúa. Ê-li phải thay đổi lòng của người dân Y-sơ-ra-ên để họ quay trở lại với Chúa thật để sự bình an của Chúa sẽ một lần nữa quay trở lại trên vùng đất. Vậy khi những tiên tri giả không thể cầu khẩn thần của họ đổ lửa xuống bàn sinh tế, Êli đã nói trong câu 30 "Hãy đến gần ta". Rồi Êli sửa lại đền thờ của Đức Giê-hô-va bị phá hủy, lấy 12 hòn đá, theo số mười hai chi phái dân tộc Y-sơ-ra-ên. Và từ câu 32 nói rằng “Người dùng mười hai hòn đá ấy mà dựng lên một cái bàn thờ nhân danh Đức Giê-hô-va; chung quanh bàn thờ, người đào một cái mương đựng được hai đấu hột giống; rồi chất củi, sả bò tơ ra từng miếng, và sắp nó lên trên củi. Kế người nói: Hãy múc đầy bốn bình nước, và đem đổ trên của lễ thiêu và củi. Người lại nói: Hãy làm lần thứ nhì; thì người ta làm lần thứ nhì. Người tiếp: Hãy làm lần thứ ba, và họ làm lần thứ ba, cho đến đỗi nước chảy chung quanh bàn thờ, và đầy cái mương nữa. Đến giờ dâng của lễ chay ban chiều, tiên tri Ê-li đến gần và nguyện rằng: Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác, và của Y-sơ-ra-ên, ngày nay xin hãy tỏ cho người ta biết rằng Ngài là Đức Chúa Trời trong Y-sơ-ra-ên, rằng tôi là kẻ tôi tớ Ngài, và tôi vâng lời Ngài mà làm mọi sự này. Đức Giê-hô-va ôi! Xin nhậm lời tôi, xin đáp lời tôi, hầu cho dân sự này nhìn biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, và Ngài khiến cho lòng họ trở lại”

Rồi “Lửa của Đức Giê-hô-va bèn giáng xuống, thiêu đốt của lễ thiêu, củi, đá, bụi, và rút nước trong mương. Thấy vậy, cả dân sự sấp mình xuống đất, và la rằng: Giê-hô-va là Đức Chúa Trời! Giê-hô-va là Đức Chúa Trời!”

Khi đó họ biết rằng Thần mà họ đang phục vụ là Thần Ba-anh và A-sê-ra không phải là Chúa, chỉ có Đức Giê-hô-va, là Đấng mà tổ tiên của họ là Áp-ra-ham đã phục vụ trước đây mới là Chúa thật. Họ đã dẹp bỏ hết tất cả những thần tượng đó và Êli đã bắt các tiên tri giả phải chết. Rồi ông tiếp tục cầu Chúa ban mưa xuống. Câu 41-66 nói về việc ông Êli đã cầu nguyện như thế nào để cho trời đổ mưa. Ông đã cầu nguyện 7 lần. Mặc dù đã cầu nguyện 7 lần, nhưng chỉ mới có một đám mây nhỏ trên bầu trời, rồi ông nói với vua rằng “Hãy thắng xe và đi xuống, kẻo mưa cầm vua lại chăng”

Câu 45 nói rằng Trong một lúc, trời bị mây đen, gió nổi dậy, và có cơn mưa rất lớn. Sau 3 năm rưỡi hạn hán và bắt đầu có mưa trở lại, bởi vì người dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa quay trở lại với Chúa. Như Chúa đã hứa, sự bình an của Chúa một lần nữa đã quay trở lại vương quốc Y-sơ-ra-ên.

Mưa rất quan trọng. Khoảng 20 năm trước khi tôi còn đang ở Madras (Ấn Độ), tôi đến đó để truyền giảng. Vào lúc đó đang gặp hạn hán khoảng 8 đến 9 tháng rồi. Dân số của Madras lúc đó khoảng 4 triệu người và họ hoàn toàn không có nước để uống. Lúc đó, họ đã tụ họp lại hết tất cả người dân ra bãi biển, bất kể tôn giáo nào, họ nhóm họp lại để cầu nguyện thần của họ để cầu xin mưa đổ xuống. Họ đã cầu nguyện trong suốt 1 ngày 1 đêm. Bãi biển lúc đó rất đẹp. Hàng ngàn người đã nhóm họp lại để cầu nguyện, nhưng vẫn không có mưa xuống.

Cũng giống như những tiên tri của thần Ba-anh và A-sê-ra, nếu chúng ta không biết Chúa Thật thì sẽ không có sự bình an. Hôm nay chúng ta cảm tạ Chúa vì sự bình an của Chúa ở trong chúng ta. Không chỉ có nước mưa thôi, và thực tế thì chúng ta cần sự bình an ở trong Ngài, và chỉ có Đức Chúa Trời mới có thể ban chúng ta sự bình an thật sự. Chỉ có Đức Chúa Trời là Đấng sáng tạo, là Cha chúng ta trên trời. Và chỉ khi chúng ta biết Ngài và sẵn sàng đến với Ngài, để tìm kiếm và giảng hòa với Ngài, giống như dân Y-sơ-ra-ên đã một lần thờ thần tượng khác, mất đi sự bình an của Chúa. Chỉ khi họ quay trở về với Chúa, khi họ hòa giải với Chúa thì sự bình an của Chúa một lần nữa lại được ban trên họ.

Để những người đó quay trở lại với Chúa, Ngài đã tiết lộ chính Ngài cho nhân loại. Ngài đã thực hiện dấu lạ và phép màu. Ngài đã đến thế gian này bằng xác thịt của con người. Chúng ta cùng nhau mở trong sách Giăng 1:1-3, 14,18

Giăng 1:1-3: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.”

Giăng 1:14: Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa chúng ta, đầy ơn và lẽ thật; chúng ta đã ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển của Con một đến từ nơi Cha.

Giăng 1:18: Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời; chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết.

Chúa là thần linh nên mắt của con người không thể thấy được Ngài, nhưng sự hiện diện của Ngài thì chúng ta có thể cảm thấy được, bởi vì Ngài sẵn sàng ở trong trái tim và tấm lòng của con người. Cũng từ việc sáng tạo mà chúng ta biết được rằng có Chúa. Trong Kinh Thánh nói rằng “chẳng có một cái nhà nào không phải bởi có người dựng nên; mà Đấng đã dựng nên muôn vật ấy là Đức Chúa Trời.” Khi chúng ta leo lên ngọn núi, chúng ta nghĩ rằng chúng ta là người đầu tiên lên đỉnh núi, nhưng khi lên đến đỉnh núi chúng ta lại thấy một ngôi nhà ở đó thì chúng ta biết rằng có một ai đó đã đến sớm để xây ngôi nhà đó, nếu không thì tại sao ngôi nhà đó lại tồn tại? Cũng giống như vậy khi chúng ta nhìn vào thế giới này, đó chính là sự sáng tạo của Chúa. Nếu không có Đấng sáng tạo thì làm sao mọi vật tồn tại?

Cũng giống con người, người đàn ông đầu tiên và người phụ nữ đầu tiên trên đất, chắc chắn là họ không có ba mẹ, vì nếu họ có ba mẹ thì họ không phải là người đầu tiên rồi. Vậy họ từ đâu đến? Cũng có một câu hỏi khác nữa “Con gà có trước hay cái trứng có trước? Nếu chúng ta nói rằng trứng có trước vậy thì trứng từ đâu đến? Nếu chúng ta nói rằng con gà có trước vậy thì con gà từ đâu đến?

Câu trả lời trong Kinh Thánh đó là Đức Chúa Trời đã tạo ra mọi vật. Chúa đã tạo rất cả mọi thứ trên thế giới này, Ngài đã tạo ra người nam & người nữ. Người đàn ông đầu tiên và người phụ nữ đầu tiên trên đất chính là sự sáng tạo của Chúa, và Chúa đã ban cho họ khả năng sanh nở. Và từ người đàn ông và người phụ nữ đầu tiên trên đất này mà cả nhân loại được tạo nên. Nhưng chính là Chúa đã ban cho chúng ta sự sống. Vị Chúa này là Đấng sáng tạo.

Những câu Kinh Thánh mà chúng ta đọc nói cho chúng ta biết rằng chính Đức Chúa Trời đã tạo nên vạn vật. Ngôi lời trở nên xác thịt và ở trong chúng ta. Chúng ta biết Ngài chính là con của Cha Thiên thượng, và Ngài tràn đầy lòng thương xót & lẽ thật. Ngài chính là Chúa Giê-xu Christ, đã được sinh ra cách đây 2000 năm trước trong một ngôi nhà của người Y-sơ-ra-ên, được sinh ra đúng với những gì được chép trong Kinh Thánh, sinh ra tại Bết-lê-hem, lớn lên ở Na-xa-rét, và được biết đến là con của Mary & Giô-sép. Ngài đã sống trong xác thịt trong khoảng thời gian suốt 33 năm. Trong 3 năm cuối cùng cuộc đời mình, Ngài đã vượt qua các thành phố từ Giu-đa đến Ga-li-lê và truyền giảng phúc âm về Vương quốc Thiên đàng. Ngài đã làm nhiều điều huyền diệu, dấu lạ & điều kỳ diệu để cho chúng ta biết được rằng Ngài chính là Đức Chúa Trời.

Ma-thi-ơ 9:20-22 - Nầy, có một người đàn bà mắc bịnh mất huyết đã mười hai năm, lại gần sau lưng mà rờ trôn áo Ngài. Vì người đàn bà ấy tự nghĩ rằng: Nếu ta chỉ rờ áo Ngài, thì cũng sẽ được lành. Đức Chúa Jêsus xây mặt lại, thấy người đàn bà, thì phán rằng: hỡi con, hãy vững lòng, đức tin con đã làm cho con được lành. Liền trong giờ đó, người đàn bà lành bịnh.

Đó là vào thời gian khi Chúa Giê-xu Christ đang truyền giảng. Thật ra Ngài đang trên đường đến nhà của người cai nhà hội bởi vì con gái của ông ấy sắp chết. Người cha đã đến để cầu xin Chúa Giê-xu đến nhà của ông ấy. Khi Chúa Giê-xu đang trên đường đến đó thì có một người phụ nữ đã bị bệnh mất huyến trong suốt 12 năm.

Trong những sách phúc âm khác thì có nói rằng người phụ nữ này đã tốn rất nhiều tiền bạc, đã chi hết tất cả các khoảng tiết kiệm của mình để tìm cách chữa bệnh nhưng bà không có cách nào để tìm được cách chữa bệnh cho mình. Bà ấy rất đau đớn, vì vậy khi bà nghe rằng Chúa Giê-xu Christ đang ở đó, bà đã quyết định đến và chạm vào trôn áo của Ngài. Bà nói rằng: “Nếu ta chỉ rờ áo Ngài, thì cũng sẽ được lành”

Rồi khi bà chạm vào trôn áo của Chúa Giê-xu, thì quả nhiên bệnh của bà được chữa lành. Đức Chúa Jêsus xây mặt lại, thấy người đàn bà, thì phán rằng: “Hỡi con, hãy vững lòng, đức tin con đã làm cho con được lành. Liền trong giờ đó, người đàn bà lành bịnh.”

Từ câu 27 đến câu 32, đề cập về 2 người đàn ông bị mù đã đến xin Chúa Giê-xu thương xót họ. Chúa đã nói với họ rằng: “Hai ngươi tin ta làm được điều hai ngươi ao ước sao? Họ thưa rằng: Lạy Chúa được. Ngài bèn rờ mắt hai người mà phán rằng: Theo như đức tin các ngươi, phải được thành vậy. Mắt hai người liền mở.”

Ma-thi-ơ 14:34-36 – “Khi qua biển rồi, Ngài và môn đồ đến xứ Ghê-nê-xa-rết. Người xứ đó nhận biết Ngài, thì sai người báo tin cho khắp các miền xung quanh, và họ đem các kẻ bịnh đến cùng Ngài, xin chỉ cho rờ đến viền áo mà thôi; vậy ai rờ đến cũng đều được lành bịnh cả.”

Ở đây nói rằng rất nhiều người đã đến đế chạm vào viền áo của Chúa Giê-xu, đó là những người bịnh, ai rờ đến cũng đều được lành bịnh cả. Chúng ta có thể thấy được Đức Chúa Trời trong Chúa Giê-xu Christ. Đó là lý do tại sao Chúa Giê-xu Christ đã nói với họ rằng “Các ngươi sẽ có sự hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế gian rồi!”

Chúa Giê-xu Christ đã hứa rằng Ngài sẽ ban bình an cho loài người. Bởi vì Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời, ở trong Ngài chúng ta sẽ có sự bình an thật sự. Đó là lý do tại sao mà Ngài nói rằng “Ta để sự bình an lại cho các người; ta ban sự bình an ta cho các người; ta cho các ngươi sự bình an chẳng phải như thế gian cho. Lòng các ngươi chớ bối rối và đừng sợ hãi”

Vào lúc đó nhiều người khi đến với Chúa Giê-xu Christ, đặc biệt là đối với những người không có sự bình an, họ đã thật sự nhận được sự bình an. Cũng có những người bị quỷ ám, cũng có những người như Gia-ru, người cai quản nhà hội, con gái của ông sắp chết. Cũng có những người như người phụ nữ bị bệnh mất huyết trong suốt 12 năm. Họ không tìm được cách nào để cứu chữa, nhưng khi họ đến với Chúa Giê-xu Christ, họ đã có được sự bình an, bởi vì Chúa Giê-xu Christ đã chữa lành bệnh cho tất cả những người yếu đuối, Ngài đã đuổi quỷ trong họ. Đây chính là quyền năng của Đức Chúa Trời trong Chúa Giê-xu Christ, bởi vì Ngài chính là Chúa Quyền năng. Những người đến với Ngài cũng sẽ nhận được sự bình an như vậy. Hôm nay, trải nghiệm của chúng ta là những người cơ đốc nhân cũng giống như vậy, bởi vì Chúa Giê-xu không chỉ là Chúa trong Kinh thánh, Ngài là Đức Chúa Trời của ngày hôm qua, ngày nay và cho đến đời đời. Ngài luôn luôn ở trong chúng ta.

Chỉ mới trưa đây thôi, tôi mở trang web của Hội thánh chúng ta. Tôi muốn tìm một lời làm chứng. Có một anh ở Toronto. vào năm 1993, trước khi anh ấy chuyển từ Đài Loan để định cư ở Canada, anh ấy bị chẩn đoán bệnh ung thư. 4/5 bao tử của anh ấy đã phải bị cắt bỏ, nhưng cuối cùng anh vẫn xoay sở để đến Toronto cho sức khỏe của mình. Nhưng năm 1998, anh lại một lần nữa bị chẩn đoán là ung thư. Bác sĩ kiểm tra và nói rằng họ không thể làm được gì cho anh ấy cả bởi vì anh ấy quá yếu để làm phẫu thuật. Nhưng nếu không làm phẫu thuật thì chắc chắn là anh ấy sẽ phải chết. Nhưng nếu anh ấy làm phẫu thuật thì có thể anh ấy cũng chết. Anh ấy đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Vào lúc đó thì anh ấy cũng đã tin Chúa rồi.

Mặc dù anh ấy rất buồn nhưng anh ấy vẫn tiếp tục cầu nguyện với Chúa Giê-xu. Một bác sĩ đã sẵn sàng để làm phẫu thuật cho anh. Anh ấy rất can đảm. Anh ấy đã kể cho những anh chị em trong Hội thánh nghe rằng mặc dù anh ấy sẵn sàng cho ca phẫu thuật rồi, nhưng khả năng chết trong lúc phẫu thuật là rất cao. Nghe như vậy thì những anh chị em trong Hội thánh rất buồn, nhưng không còn cơ hội nào cả mà phải quyết định làm phẫu thuật. Một vài ngày trước khi làm phẫu thuật, anh ấy đã rất buồn.

Tất cả anh chị em trong Hội thánh đã đến và cầu nguyện với anh ấy. Nhiều anh chị em ở Đài Loan cũng cầu nguyện cho anh ấy. Và họ đã động viên anh rằng "Đừng lo lắng gì cả, Chúa của chúng ta sẽ bảo vệ anh. Bệnh của anh rồi sẽ được chữa lành". Họ đã nói những điều này với anh, nhưng về y khoa mà nói thì điều này có vẻ như không thể được. Nhưng đây là hy vọng nhỏ mà anh ấy có thể bám víu vào.

Rất tuyệt vời là sau cả phẫu thuật, anh ấy đã hoàn toàn hồi phục. Không có bao tử, anh ấy chỉ còn 40kg khi làm phẫu thuật, nhưng anh ấy đã hồi phục. Bây giờ anh ấy đã hơn 60kg rồi. Mặc dù không có bao tử nhưng anh ấy cũng lên được 60kg. Đây chính là sự bình an của Chúa, vinh hiển đến từ Ngài. Đây cũng chính là Sự cứu rỗi của Chúa. Nhưng ân điển cứu rỗi của Chúa không chỉ giới hạn ở những thứ thuộc về vật chất, mà điều quan trọng hơn cả đó là sự sống vĩnh hằng.

Nếu chúng ta đọc trong những sách phúc âm, chúng ta sẽ thấy được rằng Chúa Giê-xu Christ đã làm cho người chết sống lại. Giăng 11 nói về một người đàn ông tên là La-xa-rơ. Ông ấy là trẻ mồ côi cùng với 2 người em gái của mình. Ông ấy sống ở Bê-tha-ni, họ là những người mà Chúa yêu mến rất nhiều. Và lúc đó, tin tức đã đến với Chúa rằng La-xa-rơ đang bệnh rất nặng, sắp chết.

Lúc mà Chúa Giê-xu đến nhà của họ thì La-xa-rơ đã chết và được chôn 4 ngày rồi. Vì vậy khi Chúa Giê-xu đến nhà của các em gái của La-xa-rơ thì cả mọi người đều đang rất đau buồn. Họ nói rằng “Lạy Chúa, nếu Chúa có đây, thì anh tôi không chết;” Nhưng câu 23 Chúa Giê-xu đã nói rằng “Anh ngươi sẽ sống lại”. Rồi em của La-xa-rơ lại nói rằng: “Tôi vẫn biết rằng đến sự sống lại ngày cuối cùng, anh tôi sẽ sống lại. Đức Chúa Jêsus phán rằng: Ta là sự sống lại và sự sống; kẻ nào tin ta thì sẽ sống, mặc dầu đã chết rồi. Còn ai sống và tin ta thì không hề chết. Ngươi tin điều đó chăng?”

Đây chính là lời hứa của Chúa rằng chúng ta sẽ có sự sống đời đời. Rồi Chúa Giê-xu đã đến ngôi mộ của người đàn ông này. Ông ấy đã được chôn 4 ngày rồi. Chúa Giê-xu nói rằng “Hãy lăn hòn đá đi”. Nhưng em gái của La-xa-rơ nói rằng có thể đã có mùi rồi. Rồi Chúa Giê-xu lại phán rằng: “Ta há chẳng từng nói với ngươi rằng nếu ngươi tin thì sẽ thấy sự vinh hiển của Đức Chúa Trời sao?” Rồi họ lăn hòn đá đi, trong câu 43 viết rằng: “Khi Ngài nói xong, bèn kêu lên một tiếng lớn rằng: Hỡi La-xa-rơ, hãy ra! Người chết đi ra, chân tay buộc bằng vải liệm và mặt thì phủ khăn. Đức Chúa Jêsus phán cùng chúng rằng: Hãy mở cho người, và để người đi. Có nhiều người Giu-đa đã đến cùng Ma-ri và thấy sự Đức Chúa Jêsus làm bèn tin Ngài”

Đúng vậy, Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời. Bởi vì Ngài chính là Chúa, Ngài có thể ban sự sống thậm chí cho cả những người đã chết rồi. Ngài ban sự sống vĩnh hằng cho những ai tin Ngài. Đó là lý do tại sao Kinh Thánh nói rằng nếu chúng ta biết đây là Chúa thật và tin vào Chúa Giê-xu Christ, chúng ta sẽ có sự sống vĩnh hằng.

Giăng 17:3 - Vả, sự sống đời đời là nhìn biết Cha, tức là Đức Chúa Trời có một và thật, cùng Jêsus Christ, là Đấng Cha đã sai đến

Đây cũng chính là lời hứa của Chúa Giê-xu Christ rằng nếu chúng ta có thể biết được Chúa thật, biết được Ngài là Đấng Cha đã sai đến, là Đấng đến bằng xác thịt, nếu chúng ta biết Ngài và tin Ngài, chúng ta sẽ có một sự sống đời đời.

Và Chúa Giê-xu Christ làm chứng với chúng ta rằng Ngài có quyền năng để ban cho chúng ta sự sống đời đời, bởi vì sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá, bị chôn, rồi Ngài sống lại. Kinh Thánh nói rằng Ngài đã ở cùng với các môn đệ trong suốt 40 ngày. Hàng trăm người đã thấy sự sống lại của Ngài. Trong số đó có cả những người không tin Chúa. Trong số đó cũng có những người là gia đình của Ngài.

Khi Chúa Giê-xu Christ truyền giảng phúc âm, thậm chí là những người anh em của Ngài cũng không tin. Chỉ khi Chúa Giê-xu sống lại từ sự chết, xuất hiện với tất cả mọi người bao gồm các anh em của mình, thì họ đã tin Ngài. Và những người thấy sự sống lại của Đấng Christ đã làm chứng về quyền năng của Ngài. Họ là những người đã truyền giảng phúc âm về vương quốc Thiên đàng, họ đi từ các thành phố từ Giu-đa đến Sa-ma-ri-a đến tận cùng trái đất. Bởi vì họ biết rằng Chúa Giê-xu chính là Chúa đó. Trong Ngài có sự tha thứ tội lỗi. Trong Ngài có sự sống vĩnh hằng.

Có rất nhiều người đã tuyên bố rằng Chúa Giê-xu Christ chính là Đức Chúa Trời đã bị bắt bớ và bị hành quyết bởi chính quyền lúc đó. Bởi vì họ đã chứng kiến sự sống lại của Đấng Christ, họ đã thấy được bằng chứng từ Chúa về sự sống vĩnh hằng, Đức Thánh Linh của Chúa, Đức Thánh Linh đổ trên các môn đệ của Ngài, đó chính là bằng chứng về sự sống vĩnh hằng trên Thiên đàng.

Vì vậy mặc dù là họ phải đối diện với sự chết nhưng họ vẫn tiếp tục nói rằng Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời, và những ai tin Ngài sẽ có sự sống vĩnh hằng. Ngày hôm nay, phúc âm này cũng được tuyên bố với chúng ta, và trong Hội thánh của chúng ta, cũng có rất nhiều lời làm chứng về điều này. Có những người tin Chúa, họ cũng đã từng trải qua sự chết trước đây. Cá nhân tôi cũng biết được có 2 hay 3 người ở Ma-lay-si-a.

Một người trong số đó đó là chị Chin. Vào năm 1976, chị ấy đã chết trong lúc đi nghỉ ở cao nguyên Cameron. Cùng với chị lúc đó có gia đình chị và gia đình của người dì, tổng cộng là có 3 gia đình đi chung với nhau. Chị đã vào phòng tắm để tắm nhưng rồi lại bị ngộ độc khí gas. Lúc đó chị chỉ có 12 tuổi thôi. Chị đã hoàn toàn ngưng thở. Nhưng chị cũng đã xoay sở để mở cửa phòng tắm, nhưng chị không còn thở được nữa. Rồi mọi người mang chị vào phòng ngủ. 3 người mẹ trong 3 gia đình đó cũng là thành viên trong Hội thánh chúng ta.

Họ biết rằng chỉ có Chúa có thể làm cho đứa bé sống lại. 3 người cha lúc đó vẫn chưa tin Chúa. 3 người mẹ đã quỳ xuống và cầu nguyện. Ba của chị Chin yêu con mình rất nhiều nên cũng quỳ xuống và cầu nguyện. 2 người cha khác thì đã đi ra ngoài để tìm bác sĩ. Đó là vào ngày Chủ nhật nên các trung tâm y tế đều đóng cửa hết. Nhưng rồi họ cũng biết được nhà của bác sĩ ở đâu. Vào lúc bác sĩ đến ngôi biệt thự mà họ đang nghỉ ở đó thì đứa trẻ đã sống trở lại rồi. Khoảng hơn 1 tiếng sau đó, đứa trẻ bị chết đã sống lại. Sau khi 3 người cha thấy đứa trẻ được sống lại, họ đã tin Chúa.

Hôm nay, chị Chin vẫn còn sống mặc dù ba mẹ chị đều đã qua đời cả rồi. Bây giờ chắc chị cũng khoảng tầm 40 tuổi rồi. Chị đã được sống trở lại thông qua những lời cầu nguyện và niềm tin vào danh Chúa Giê-xu Christ. Và bởi vì chúng ta tin vào Chúa thật này, chính Chúa Giê-xu Chirst cũng được sống lại từ cái chết. Vì vậy lời hứa của Ngài về sự sống vĩnh hằng là hoàn toàn thật. Niềm vui của chúng ta là có thể chia sẻ với mọi người về tin lành này.

Chúng ta cầu nguyện để sự bình an của Chúa sẽ ở cùng với tất cả chúng ta ở đây. Nguyện mọi vinh hiển thuộc về Chúa.

 

» True Jesus Church